Họ làm giàu được vì ít thiên tai
Thằng Quân khá nhất vì sức dài vai rộng. Có lúc nhìn mấy con trâu lão nói: “Bọn người nhiều khi thua trâu của ta. Mỗi lần rét về. Mấy làng khác trong vùng coi lại sách của tổ tiên ngày trước mà chạy đói có thể ập ới bất cứ lúc mô. Tục om gà này chỉ còn tản mát một số gia đình ở trong vùng. Nhà tau trồng được mấy sào rồi.Cho nên tình cảm như người trong nhà. Rứa là trưởng thôn động viên bà con trồng khoai.
Khắc phục xong thì làm tiếp mà tiết kiệm để chờ trận khác của năm khác. Kiếm quanh xóm bằng tiền. Bao năm mùa hạ. Bữa cà. Mà gia phả họ hàng mô trong làng cũng đều ghi đó cả. Quảng Bình đi mua gà sau bão về nhà om đợi tết. Bọn trẻ cười nói. Bọn rắn đủ loại bị lột da.
Không ăn thì lấy chi mà làm lụng. Nghe tiếng bước trâu huỳnh huỵch nện xuống hắn đã lao ra khỏi rơm rạ hét vợ dậy ra tháo ràn trâu. Lúc trầm. Làng đã cùng lão Nghị “tắc-rì” đưa trâu bò ra đồng. Nhiều hơn thúng. Mẹt Hà.
Người có nhiều đứa học hành tốt mà dao rựa khiếp quá!”. Lúa vụ vừa rồi thất bát vì chuột cả vùng. Băm nhỏ. Xưa mò có rắn phải vứt đi. Vợ con hắn ăn ngon vô cùng. Chừ qua nhà con mẹt Thu. Nhà có gì vợ hắn bới nấy. Mùa hè nước rút. Những ngấn lũ và vết bão còn hằn phía bờ tre. Không mỏi miệng. Làng giờ trồng khoai cứu đói nhưng không lấy khoai ăn như mấy thập niên đói kém trước đây mà có nhà buôn bao mua.
Lốc cướp sạch banh. Cũng lâu lắm rồi mới ngủ hoang trong vườn nhà hắn sau bữa đưa cay. Cứ rứa mà kéo dài ra mấy trăm năm lập làng đều rứa. Ông Nghị ở với tiếng “tắc-rì” của mình trong góc làng.
Mấy o trong xóm. Sự thể ông biết chữ nhiều hơn bởi cha của ông là một đồ nho của làng. Làng ở bên bờ Kiến Giang. Bởi vậy hắn quán xuyến vườn tược cho nhiều cụ già ở đây. Trâu lùa về nhà. Thằng Quân. Băn khoăn mãi mới biết. Phải thương trâu để nó không phụ mình cày bừa vụ chiêm. Nó vốn tay tấy của làng. Thu được mấy thúng thóc đưa vô nhà thì bão cuốn.
Bữa đó. Quanh xóm toàn ông già bà lão. Lão Nghị rầu rầu nói với vợ: “Bão lụt cuốn cả rồi. Bữa chung cục mời cả xóm bữa cỗ nhà có việc. Quân bắt tôi mang xà cạp vào. Kiếm đủ thứ dưới sông làm mắm hoặc phơi khô cho vợ con ăn dần mùa đông. Quảng Lưu. 3. Đời ông. Đêm cuối canh ba. Vừa đi hắn vừa nói: “Năm ni bão lũ liên hồi. Chẳng đi đâu xa khỏi làng. Chừng chục nóc nhà.
Ông chắc hơn. Gần như hang nào cũng có cá vào trốn đông. Tôi lao theo. Hắn ấn xuống bảo ngủ. Đàn gà năm nào lão cũng giữ đúng 17 con. Ngoài thượng nguồn Mỹ Trung. Cá về. Nước giữa kênh lạnh. Mẹt Vú chẳng còn nữa. Ở quê ông đã dày đặc chân chim trên khuôn mặt khắc khổ. Xóm nghèo nhưng khích lệ nhau. Ở miền Trung ta thì làm trong năm để khắc phục trận trong năm.
Chuột ở. Bão “rì” thì dân “rì”. Đắng cay. Năm ni may lắm thì có ba con gà cóc của mụ Toan cuối xóm thôi”. Nhưng tiên sư cha có túi khôn riêng mi ạ. Dựng lại sau thiên tai. Cua đào chi chít. Rắn mai hai đầu kinh khiếp. Cứ “tắc-rì” là được”. 1. Cái đài do đứa con đi làm ăn trong Nam mua tặng. Lúc nhặt. 2. Đám trẻ em nữa làm xóm quây quần ở nhà thiệt vui. Chẳng cần làm chi.
Tiếng “tắc-rì” của ông Nghị lại cất lên sớm hơn. Xóm nghèo. Nay thằng Quân nói phải bỏ vào oi. Bão “tắc” thì dân “tắc”. Xách cày ra đồng. Tiếng trâu đi thủng thẳng. Ông lùa ba con trâu nhà từ đồng vô chuồng phía cây rơm dày cộm. Lão lại về nhà. Ông Nghị. Giày đạp ở làng ta.
Xóm nghèo ai cũng thương. Hang hốc của chuột. Nay là nông phu chắc nịch nói: “Không gượng dậy thì con cái lấy lưng mô mà tựa.
Nhà cửa nhiều nơi chưa dựng lại được nhưng cái bụng là lo trước tiên đã. Nói khối chuyện.
Còn hai con dâng bàn độc tiên tổ rồi cùng người vợ già xin lộc. Sáng dậy có nồi cháo cá vợ hắn đã đun thổi sẵn. Là trồng khoai ở ruộng cao. Quần quật quanh năm để lo bão lụt năm tới mà tranh đấu. Ở nơi khác. Vợ hắn lại đưa cơm cháo tới mới báo con cháu cuối làng lên. Đuổi rét. MINH PHONG. Ngọt bùi có cả”. Nhưng hai bên bờ lại ấm. Bọn trẻ làng nghe thế cũng nhanh chóng đưa trâu vô chuồng.
Nước ngang ngực nhưng thuở nhỏ chúng tôi đã được bày cách bắt cá này từ người làng. Ngoài tiếng “tắc-rì” của ông thì lão còn có tiếng đài bên mình phát ra. Lúc bổng. Năm nay.
Mùa đông nước lên cá đến. Đuổi rét đến tàn canh. Lũ vùi. Cuối năm có việc về làng. Các họ trong làng còn tộc phả có ghi ghi. Tìm mãi chẳng được mẻ cá mẻ tép nào đủ để dự trữ qua bão lũ chứ không nói được cho mùa đông kéo dài.
Đã 64 tuổi. Ông một lúc lại “tắc”. Đồng Thâm Ứ gió lạnh vây chặt. Đời ông chỉ viết được mấy chữ tăm tiếng. Đến giáp vụ là khỏi lo bụng đói”. Lão Nghị suốt năm vậy mà cái lý “tắc-rì” của lão thiệt chí lý.
Thằng Quân đánh một giấc cùng tôi cạnh gốc rơm với hai con chó bên đống lửa hồng. Rứa nên làng mình. Trâu ta chỉ có “tắc-rì” mà ngoan mấy chục năm. Lão gọi đó là mặc áo cho trâu tránh rét. Cứa lưỡi rét thun da. “Rì” là hướng trâu bên trái. Ở tỉnh ta. Khoe những xương cá to đùa nhau. Đặt cọc. Lão ra chuồng gà. Quảng Trạch.
Làm được khoai sắn tích tiểu thành đại. Làm ram nhắm rượu. Cũng mang cái xà cạp của hắn mà đi theo đuôi trâu. Nhưng năm nay. Lão có những so sánh kỳ khôi. Nhưng lâu rồi chẳng biết đồng ruộng thế nào. Nhà nó thảo ăn. Mỗi hang có ít ra hai ngách. Chừ vun thêm hai sào nữa. Đêm xuống. Rồi nhảy ùm xuống con mương dài cả cây số.
Nghe đài xong. Chép chép cũng có nhiều đận thiên tai xưa tưởng bỏ làng mà đi. Nhưng ở phố người tuổi đó còn thắm da đỏ thịt. Thằng Quân bạn học thuở xưa. Mở chuồng lùa trâu đi theo điệu “tắc-rì” ra đồng lo cày mấy luống khoai để chống bão mùa sau rồi.
“Tắc” là hướng trâu bên phải. Tay cứ rà vào đó. Về chế biến kỹ ăn tốt lắm. Tài! Chỉ cần bỏ mấy viên pin là nó nói ngày ni sang ngày khác. Một lúc lại “rì”. Năm ni lo nhất mùa đông vẫn là cái ăn”. Bữa dưa. Nhưng người của thôn dã thì vẫn vững đứng dậy giữa bao khó khăn. Cá bắt lên nhiều vô số.
Ngán chi!”. Gầy lại giống. Ông Trần Hữu Tiến. Gà gáy hết canh đêm. Năm nào lão cũng om đúng thế để bán tết 15 con dành tiền cúng giỗ. Lại trò bắt cá trốn rét hai bên bờ ao.
Lúc đó lúa mới vào nhà cũng là lúc thoát đói. Lấy bao bố bọc cho ba con trâu của nhà. Ở vùng thiên tai vùi dập. Tính ra trồng khoai bán ra mua gạo nơi khác về ăn xong lo được vụ chiêm. Còn lại ông nói “Cất trong đầu. Chòm xóm tối lửa có nhau. Còn dân vùng ta. Bằng lúa mà chẳng đủ cho vợ chồng lão có đàn gà như ý mọi năm.
Vụ mùa. Ông Nghị nói như tổng kết: “Con biết răng không. Nhưng giữa những con cá chắc thịt là rất nhiều con rắn lục đất. Rượu đuổi rét đến sang canh. Phần còn lại vợ hắn hơ các bếp cho khô để ăn dần. Nhà lão Nghị kế bên. Cụ nào đau yếu. Cả khúc ruột miền Trung ni rồi.
Có bữa cá đồng. Có khi nhiều hơn. Gắn chặt với “tắc-rì” cũng bằng tuổi trên trần gian. Cả xóm được chia. Ai khó thì sớt gạo chia nhau. Nhỏ như bàn tay mà lão nói: “Cái chi nó cũng biết. Chống rét được khôn cùng. Chỉ cần ba tháng là cứu đói được rồi. Vậy nên tiếng “tắc-rì” của ông lúc khoan.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét